Bài kiểm tra test IQ được cho rằng bắt nguồn từ Paul Broca và Sir Francis Galton. Họ chính là những nhà khoa học đầu tiên nghĩ đến việc đo lường trí thông minh của con người. Họ cho rằng có thể xác định trí tuệ của một người bằng kích thước hộp sọ. Hộp sọ càng to thì trí thông minh của một người càng lớn. Ngày nay các phương pháp và ý tưởng của họ đã được cho là lỗi thời và không còn được áp dụng.
Bài kiểm tra IQ đầu tiên thực sự
Bài kiểm tra trí thông thông minh đầu tiên trong lịch sử IQ được phát triển vào năm 1904. Chúng được thực hiện bởi các nhà khoa học Alfred Binet (1857-1911) và Theodore Simon (1873-1961). Bộ giáo dục Pháp đã yêu cầu những nhà nghiên cứu một bài kiểm tra cho phép bạn phân biệt trẻ chậm phát triển trí tuệ bình thường thông minh nhưng lười biếng.
Bài kiểm tra test IQ này bao gồm một vài thành phần như suy luận logic, tìm từ có vần và đặt tên cho đồ vật. Điểm số của bài test này sẽ kết hợp với độ tuổi trung bình của trẻ. Nó sẽ cung cấp thông tin về sự phát triển trí tuệ của trẻ đi trước hay tụt hậu so với những bạn đồng trang lứa. Chỉ số IQ được tính dựa theo công thức (tuổi trí tuệ/ tuổi thời gian) x 100. Bài kiểm tra đã thành công rực rỡ ngay cả châu Âu và châu Mỹ.
Thang đo kiểm tra của Stanford-Binet
Khi thang đo trí tuệ thông minh của Stanford-Binet được đưa đến Hoa Kỳ. Nó đã được tạo ra một sự quan tâm đáng kể. Nhà tâm lý học Lewis Terman của đại học Stanford đã tiến hành lấy bài kiểm tra gốc của Binet và chuẩn hóa nó bằng cách dùng một mẫu người Mỹ tham gia.
Bài test thích nghi này được xuất bản lần đầu vào năm 1916 và được gọi là thang đo Stanford-Binet. Nó đã nhanh chóng trở thành bài kiểm tra trí tuệ tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi ở Mỹ. Hơn nữa nó cũng sử dụng một con số duy nhất được gọi là thương số thông minh (IQ). Chúng chính là điểm số của mỗi cá nhân trong bài kiểm tra.
Cho đến hiện tại thì Stanford-Binet vẫn là một trong những công cụ đánh giá phổ biến. Dù nó đã trải qua vô số lần sửa đổi kể từ khi ra mắt nhưng tính chính xác của nó vẫn luôn nằm ở mức ổn định. Ví dụ như một đứa trẻ có trí tuệ 12 tuổi và tuổi theo trình tự thời gian là 10 tuổi. Khi đó chỉ số IQ của đứa bé này chính là 120.
Ưu và nhược điểm của bài test IQ
Khi thế chiến 1 nổ ra, các quan chức Hoa Kỳ phải đối mặt với việc sàng lọc lượng lớn tân binh. Năm 1917, Robert Yerkes – Nhà tâm lý học, chủ tịch Ủy ban Kiểm tra Tâm lý đã tiến hành 2 bài kiểm tra. Đây được gọi là bài test Army Alpha và Beta.
Trong đó Army Alpha được thực hiện tương tự như bài kiểm tra viết. Trong khi đó Beta lại được tạo thành từ những bức tranh cho các tân binh không biết đọc hoặc nói bằng tiếng Anh. Các bài test được thực hiện cho hơn 2 triệu binh sĩ nhằm xác định vị trí và vai trò phù hợp cho từng cá nhân.
Sau khi chiến tranh kết thúc, những cuộc thử nghiệm vẫn được tiếp tục. Chúng áp dụng trong nhiều tình huống khác nhau ở bên ngoài quân đội. Ví dụ như các Bài kiểm tra test IQ dùng để sàng lọc người nhập như vào Hoa Kỳ.
Kết quả của chúng sẽ được dùng để đưa ra các khái quát tổng quát và không chính xác về hầu hết các dân số. Điều này đã khiến một số chuyên gia tình báo phải đề xuất ý kiến quốc hội ban hành những chính sách hạn chế nhập cư.
Cân thông minh Wechsler là gì?
Dựa vào bài kiểm tra của Stanford-Binet, David Wechsler đã tạo ra một công cụ để đo lường mới. Nó cũng giống như Binet, Wechsler tin rằng trí thông minh liên quan đến các khả năng tinh thần khác nhau. Đặc biệt, do không hài lòng với những hạn chế của phương pháp Binet, ông đã tiến hành nghiên cứu và cho ra Bài kiểm tra test IQ mới của mình. Nó được gọi là thang đo trí thông minh Wechsler (WAIS) vào năm 1955.
Wechsler cũng tiến hành phát triển 2 bài kiểm tra khác nhau để sử dụng cho trẻ em là WISC và WPPSI. Riêng phiên bản dành cho người lớn của bài kiểm tra đã được sửa đổi lần đầu và nay có cái tên là WAIS-IV.
WAIS-IV là gì?
WAIS-IV gồm 10 bài test phụ với 5 bài bổ sung. bài kiểm tra cung cấp điểm trong 4 lĩnh vực chính trị của trí thông minh như:
- Thang đo bằng lời nói
- Đo suy luận tri giác
- Đo trí nhớ
- Thang đo tốc độ xử lý
Bài kiểm tra cũng cung cấp hai điểm số rộng để được sử dụng như một bản tóm tắt về trí thông minh tổng thể. Điểm IQ toàn thang sẽ được kết hợp hiệu suất trên cả 4 điểm chỉ số và chỉ số khả năng chung dựa vào 6 điểm phụ. Thang đo này rất hữu ích trong việc xác định các khuyết tật trong học tập. Chẳng hạn như các trường hợp điểm thấp trong một số lĩnh vực kết hợp với điểm cao trong những lĩnh vực khác.
Hơn nữa WAIS-IV được chấm điểm bằng cách so điểm của người dự thi với điểm của những người khác trong cùng nhóm tuổi. Điểm trung bình sẽ được cố định trong mức 100, ⅔ điểm sẽ thuộc phạm vi bình thường từ 85 – 115. Nhờ đó mà phương pháp tính điểm này đã trở thành kỹ thuật tiêu chuẩn trong việc kiểm tra trí thông minh và được sử dụng trong bản sửa đổi hiện đại.